Hướng dẫn giải sách giáo khoa tiếng việt lớp 5 tập 1 Kết nối tri thức

Giải Sách Tiếng Việt lớp 5 tập 1 trang 89, 90, 91, 92, 93 Bài 17- KNTT

 

Kết nối tri thức_Tiếng Việt 5_Tập 1_Bài 17_Thư gửi các học sinh

 

Giải SGK Tiếng Việt lớp 5 tập 1 trang 89, 90, 91, 92, 93 Bài 17: Thư gửi các học sinh đầy đủ các phần Đọc, Viết, Luyện từ và câu, Nói và nghe, Đọc mở rộng… cho học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5.

 

Đọc (trang 89)

 

Kể về một lễ khai giảng đã để lại nhiều ấn tượng đẹp đối với em.

 

Trả lời:

 

Em vẫn nhớ hôm ấy – một buổi sớm mai có tia nắng lấp ló bên ô cửa sổ. Em phải cùng mẹ đến trường để tham dự lễ khai giảng năm học mới. Em mặc bộ đồng phục mới mà mẹ đã mua cho em và tự tay chuẩn bị cặp sách. Mẹ đeo cặp cho em, và hai mẹ con bước đi trên con phố nhỏ vào sáng mùa thu dịu mát. Đi trên con đường thân thuộc hàng ngày, mà trong lòng em không khỏi lo lắng, háo hức, nôn nao chờ đợi. Chờ đợi những gì mà em sắp sửa trải qua: đó là ngày đầu tiên dự buổi khai trường năm học mới. Khi đến cổng trường, em cảm thấy rất ngạc nhiên vì khác xa với ngôi trường mẫu giáo, trường tiểu học có rất đông bạn nhỏ cũng được bố mẹ đưa đến trường. Những chị học sinh khối 4, 5 duyên dáng trong chiếc váy đồng phục, những anh chị khăn quàng đỏ thắm trên vai, em đặc biệt chú ý những bạn cùng lứa tuổi với em, áo quần tinh tươm rụt rè nắm lấy tay mẹ đến trường. Mẹ khẽ lay tay em và nói: “Đến trường rồi kìa con!”. Trường to lớn và đồ sộ hơn trường mẫu giáo nhiều. Trước cổng trường có một tấm bảng đề chữ màu xanh biển rất to: “Trường tiểu học Quang Trung”. Bước vào cổng trường, có khoảng sân rộng đã đến trước cửa lớp. Em vẫn nhớ rất rõ là mình học lớp 1A do cô Phương làm chủ nhiệm lớp. Cô dìu tay em vào lớp và xếp chỗ ngồi. Em bịn rịn buông tay mẹ và chợt cảm giác hụt hẫng chiếm lấy trong long lúc ấy. Nhìn các bạn chung quanh mình trông ai cũng lạ lẫm. Cô giáo dẫn chúng em xếp hàng theo từng tốp. Lễ khai giảng bắt đầu trong không khí trang trọng của nghi thức chào cờ. Lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới được kéo lên trong bài hát Quốc ca trầm hùng. Cô hiệu trưởng trang trọng đọc báo cáo và mục tiêu cho năm học mới. Cả trường vang vội tiếng vỗ tay. Đám học trò lớp 1 cũng bắt chước anh chị vỗ tay. Sự rụt rè dần tan biến. Giờ phút thiêng liêng đã đến. Cô hiệu trưởng đánh ba hồi trống khai giảng năm học mới. Chính tiếng trống ấy đã khởi đầu tương lai cho chúng em qua con đường học vấn và đánh dấu một bước ngoặc lớn trong cuộc đời mình.

 

Bài đọc

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-1

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-2

 

 

Trả lời câu hỏi

 

Bài 1 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Câu nào trong thư của Bác Hồ cho thấy ngày khai trường tháng 9 năm 1945 rất đặc biệt?

 

Trả lời:

 

Câu trong thư của Bác Hồ cho thấy ngày khai trường tháng 9 năm 1945 rất đặc biệt là: Ngày hôm nay là ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

 

Bài 2 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Chi tiết nào trong thư cho thấy Bác vui cùng niềm vui của học sinh nhân ngày khai trường?

 

Trả lời:

 

Chi tiết trong thư cho thấy Bác vui cùng niềm vui của học sinh nhân ngày khai trường là: Tôi đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày tựu trường ở khắp các nơi.

 

Bài 3 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Bác nhắc học sinh nhớ đến ai, nghĩ đến điều gì trong giờ phút hạnh phúc của ngày tựu trường?

 

Trả lời:

 

Bác nhắc học sinh nhớ đến những đồng bào – những người đã hi sinh. Trong giờ phút hạnh phúc của ngày tựu trường, Bác nhắc học sinh nghĩ đến nghĩ đến trách nhiệm của bản thân: phải cố gắng, siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn.

 

Bài 4 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Vì sao Bác khuyên các em học sinh phải cố gắng, siêng năng học tập,... trong những năm học tới?

 

Trả lời:

 

Bác khuyên các em học sinh phải cố gắng, siêng năng học tập,... trong những năm học tới vì: Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên toàn cầu. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em.

 

Bài 5 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc thư Bác Hồ gửi các học sinh.

 

Trả lời:

 

Sau khi đọc thư của Bác Hồ gửi các học sinh, em cảm thấy rất xúc động vì tình cảm của Bác Hồ dành cho các em học sinh và nhận thức được trách nhiệm của mình. Bức thư đầy lòng yêu nước và tình cảm sâu sắc của Bác đã thúc đẩy em  nhận ra tầm quan trọng của việc học tập và trách nhiệm của mình đối với đất nước. Em cảm thấy tự hào về lịch sử và mong muốn góp phần vào sự phát triển của đất nước, giống như Bác Hồ đã khuyến khích các em.

 

Luyện từ và câu (trang 90)

 

Sử dụng từ điển

 

Bài 1 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 90 tập 1:

 

Sắp xếp các bước sau theo trình tự tra cứu nghĩa của từ đọc trong từ điển.

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-3

 

a. Tìm từ đọc.

b. Tìm mục từ bắt đầu bằng chữ Đ.

c. Chọn từ điển phù hợp.

d. Đọc ví dụ để hiểu thêm ý nghĩa và cách dùng từ đọc.

e. Đọc nghĩa của từ đọc.

 

Trả lời:

 

Các bước là trình tự tra cứu nghĩa của từ đọc trong từ điển:

1 – c. Chọn từ điển phù hợp.

2 – b. Tìm mục từ bắt đầu bằng chữ Đ.

3 – a. Tìm từ đọc.

4 – e. Đọc nghĩa của từ đọc.

5 – d. Đọc ví dụ để hiểu thêm ý nghĩa và cách dùng từ đọc.

 

Bài 2 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 91 tập 1:

 

Đọc các thông tin về từ đọc trong từ điển dưới đây và trả lời câu hỏi.

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-4

 

a. Từ đọc là danh từ, động từ hay tính từ?

b. Nghĩa gốc của từ đọc là gì?

c. Từ đọc có mấy nghĩa chuyển?

d. Nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ được sắp xếp như thế nào?

 

Trả lời:

 

Theo từ điển phía dưới, từ đọc có các thông tin gồm:

a. Từ đọc là động từ.

b. Nghĩa gốc của từ đọc là: Phát thành lời những điều đã được viết ra theo đúng trình tự.

c. Từ đọc có 3 nghĩa chuyển.

d. Nghĩa gốc của từ được sắp ở đầu, ngay sát với từ, từ loại của từ; nghĩa chuyển của từ được xếp sau nghĩa gốc, lần lượt cho tới hết nghĩa chuyển.

 

Bài 3 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 91 tập 1:

 

Tra cứu nghĩa của các từ dưới đây:

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-5

 

Trả lời:

 

– Học tập: động từ. 

1. Học và luyện tập để hiểu biết, để có kĩ năng. Học tập văn hoá.
2. Làm theo gương tốt. Học tập tinh thần của các liệt sĩ.

– Tập trung: động từ. 

1. Dồn vào một chỗ, một điểm. Nơi tập trung đông người

2. Dồn sức hoạt động, hướng các hoạt động vào một việc gì. Tập trung sản xuất lương thực.

– Trôi chảy: tính từ. 

1. Được tiến hành thuận lợi, không bị vấp váp, trở ngại gì. Mọi việc đều trôi chảy, êm đẹp. 

2. Được tiến hành một cách dễ dàng, không có vấp váp. Trả lời trôi chạy.

 

Bài 4 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 91 tập 1:

 

Đặt câu với 1 nghĩa chuyển của mỗi từ ở bài tập 3.

 

Trả lời:

 

– Thầy cô dạy em học tập theo gương Bác Hồ, chăm chỉ, khiêm tốn.

– Bố em tập trung làm việc suốt đêm.

– Giọng đọc của diễn viên rất trôi chảy.

 

Viết (trang 91)

 

Tìm hiểu cách viết đoạn văn giới thiệu nhân vật trong một cuốn sách 

 

Bài 1 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 91 tập 1:

 

Đọc đoạn văn dưới đây và trả lời câu hỏi.

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-6

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-7

 

a. Đoạn văn trên có nội dung chính là gì? Chọn đáp án đúng.

    A. Nêu tình cảm, cảm xúc của người viết đối với nhân vật Mi-lô.

    B. Giới thiệu về nhân vật Mi-lô trong cuốn sách Truyện kể hằng đêm dành cho các cô bé cá tính.

    C. Nêu lí do người viết yêu thích cuốn sách Truyện kể hằng đêm dành cho các cô bé cá tính.

    D. Kể về 100 phụ nữ nổi tiếng trên thế giới.

b. Tìm phần mở đầu và kết thúc của đoạn văn. Mỗi phần cho biết thông tin gì?

c. Phần triển khai nói về những đặc điểm nào của nhân vật Mi-lô? Với mỗi đặc điểm, người viết đã đưa những dẫn chứng gì (về hành động, suy nghĩ,... của nhân vật)?

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-8

 

Trả lời:

 

a. Đoạn văn trên có nội dung chính là: B. Giới thiệu về nhân vật Mi-lô trong cuốn sách Truyện kể hằng đêm dành cho các cô bé cá tính.

 

b. Phần mở đầu của đoạn văn là: Truyện kể hằng đêm dành cho các cô bé cá tính của tác giả Ê-lê-na Pha-vi-li và Phran-xét-ca Ca-va-lô là cuốn sách thú vị kể về 100 phụ nữ nổi tiếng toàn cầu. Trong đó, người để lại ấn tượng mạnh nhất là Mi-lô – nữ nghệ sĩ trống người Cu-ba.

Phần mở đầu cho biết thông tin về tên cuốn sách, tác giả viết cuốn sách và nhân vật ấn tượng trong cuốn sách.

Phần kết thúc của đoạn văn là: Nhờ tài năng, sự nỗ lực và niềm tin của Mi-lô, thế giới đã có một nghệ sĩ trống nổi tiếng. Mi-lô đã trở thành tấm gương về lòng quyết tâm theo đuổi ước mơ.

Phần kết thúc cho biết thông tin về kết quả của Mi-lô sau những nỗ lực và hình tượng Mi-lô trở thành tấm gương.

 

c. Phần triển khai nói về những đặc điểm của nhân vật Mi-lô: năng khiếu, ước mơ, lòng quyết tâm, tham gia lớp học nhạc, niềm tin của Mi-lô.

Với mỗi đặc điểm, người viết đã đưa những dẫn chứng:

 

Bài 2 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 93 tập 1:

 

Trao đổi về những điểm cần lưu ý khi viết đoạn văn giới thiệu nhân vật trong một cuốn sách.

– Bố cục của đoạn văn (mở đầu, triển khai, kết thúc)

– Cách lựa chọn đặc điểm của nhân vật để giới thiệu

– Cách đưa dẫn chứng làm rõ đặc điểm của nhân vật

– Tình cảm, cảm xúc của người đọc đối với nhân vật

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-9

 

Trả lời:

 

Khi viết đoạn văn giới thiệu nhân vật trong một cuốn sách, có một số điểm cần lưu ý như sau:

- Bố cục của đoạn văn:

+ Mở đầu: Đoạn mở đầu cần thu hút sự chú ý của độc giả bằng cách giới thiệu nhân vật một cách đầy đủ và hấp dẫn.

+ Triển khai: Phần này mô tả chi tiết về những đặc điểm, tính cách và hành động của nhân vật, cùng với các dẫn chứng để minh họa cho từng điểm.

+ Kết thúc: Đoạn kết thúc có thể tóm tắt lại những điểm nổi bật về nhân vật và để lại một ấn tượng sâu sắc cho độc giả.

- Cách lựa chọn đặc điểm của nhân vật để giới thiệu:

+ Chọn những đặc điểm quan trọng và đặc biệt nhất của nhân vật, những điểm làm nổi bật tính cách, năng lực và những ước mơ, hoặc những thách thức mà nhân vật phải đối mặt.

+ Cần đảm bảo rằng các đặc điểm được chọn là có liên quan và phản ánh sâu sắc nhân vật đó.

- Cách đưa dẫn chứng làm rõ đặc điểm của nhân vật:

+ Sử dụng các tình tiết cụ thể, ví dụ, hoặc câu chuyện để minh họa cho mỗi đặc điểm.

+ Cần lựa chọn các dẫn chứng có tính biểu đạt cao, giúp người đọc dễ dàng hình dung và hiểu rõ hơn về nhân vật.

- Tình cảm, cảm xúc của người đọc đối với nhân vật:

+ Cần tạo ra một cảm xúc tích cực hoặc tiêu cực đối với nhân vật, tùy thuộc vào mục đích của tác giả và tính cách của nhân vật.

+ Mục tiêu là làm cho độc giả cảm thấy gần gũi và quan tâm đến nhân vật, để họ muốn tiếp tục đọc về cuộc phiêu lưu của nhân vật đó.

 

Vận dụng (trang 93)

 

Bài 1 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 93 tập 1:

 

Thực hiện dự án: Sổ tay từ ngữ tiếng Việt của em.

 

tieng-viet-lop-5-trang-89-tap-1-10

 

Trả lời:

 

Em sắp xếp các từ ngữ vào một quyển sổ tay, trình bày và trang trí thật đẹp:

- tha thẩn (tt): (đi) thong thả và lặng lẽ từ chỗ này đến chỗ nọ, có vẻ như không chú ý gì đến việc mình đang ở đâu và đang đi đâu: Bé chơi tha thẩn ở ngoài sân.

- siêng năng (tt): siêng (nói khái quát): siêng năng làm việc.

- ngôi sao (dt): người đạt thành tích nổi bật trong biểu diễn nghệ thuật hoặc hoạt động thể thao: Ngôi sao sáng trên bầu trời.

- trung du (dt): miền đất ở khoảng trung lưu của sông, giữa thượng du và hạ du: vùng trung du.

- thưởng thức (đt): nhận biết được và hưởng thụ một cách thích thú: thưởng thức thơ văn.

- tu mục (đt): chăn nuôi không ở cố định một chỗ, thường đưa bầy gia súc đến nơi có nhiều cỏ và nước uống, sau một thời gian lại chuyển đi nơi khác (một phương thức chăn nuôi): dân du mục.

- kì vĩ (tt): hết sức lớn lao, hết sức đồ sộ: núi non kì vĩ.

 

Bài 2 SGK Tiếng Việt lớp 5 trang 93 tập 1:

 

Tìm đọc câu chuyện về nhà trường, thầy cô, học sinh.

 

Trả lời:

 

Người thầy và chiếc đồng hồ

Một thanh niên nhìn thấy người thầy thời tiểu học của mình tại một đám cưới. Anh ta đến chào người thầy với tất cả sự kính trọng:

– Thầy có nhớ em không ạ?

Thầy giáo nói:

– Thầy không nhớ lắm, hãy nói về em xem nào.

Người học trò nói: Em đã học lớp 3 của thầy hồi đó, em đã ăn cắp chiếc đồng hồ của một bạn trong lớp. Em chắc là thầy nhớ chuyện đó mà.

Nghề giáo cần rất nhiều tình thương yêu, lòng nhiệt huyết, đam mê, và cả sự cống hiến cho sự nghiệp giáo dục con người.

Một bạn trong lớp có một chiếc đồng hồ rất đẹp, vì vậy em đã ăn trộm nó. Bạn ấy khóc và méc với thầy có người lấy cắp đồng hồ của bạn. Thầy bảo cả lớp đứng cho thầy soát túi. Em nhận ra rằng, hành động của mình trước sau sẽ bị phơi bày ra trước mặt tất cả các bạn. Em sẽ bị gọi là thằng ăn cắp, một kẻ nói dối và hạnh kiểm của em sẽ bị hoen ố mãi mãi.

Thầy đã bắt chúng em đứng quay mặt vào tường và nhắm mắt lại. Thầy soát từng chiếc túi, và khi lấy chiếc đồng hồ từ túi của em, thầy tiếp tục soát đến túi của bạn cuối cùng. Xong xuôi, thầy kêu chúng em mở mắt ra và thầy ngồi xuống ghế. Giây phút đó em thật sự lo sợ là thầy sẽ bêu tên em ra trước các bạn.

Thầy giơ cái đồng hồ cho cả lớp thấy và đưa trả lại cho bạn ấy. Thầy đã không nêu tên người ăn cắp chiếc đồng hồ. Thầy không nói với em một lời nào và cũng không bao giờ đề cập chuyện đó với bất cứ ai. Suốt những năm tiểu học, không một giáo viên hay học sinh nào nói với em về chuyện ăn cắp đồng hồ.

Em nghĩ Thầy đã cứu vớt cho danh dự của em ngày đó. Thầy không nhớ em sao? Sao thầy lại không nhớ em được, thưa thầy? Em chắc là thầy phải nhớ câu chuyện em đã ăn cắp cái đồng hồ và thầy không muốn làm em xấu hổ. Đó là một câu chuyện không thể nào quên.

Đừng để chữ “tâm” của người thầy ngày càng mai một, vơi đi.

Người thầy đáp: – Thầy không thể nào nhớ được ai đã lấy cắp cái đồng hồ ngày đó, bởi vì khi thầy soát túi các em, thầy cũng… nhắm mắt!

Thầy nghĩ rằng việc lấy chiếc đồng hồ đó là một hành động nhất thời bồng bột của các em. Thầy không muốn hành vi đó lưu lại trong trí nhớ của các em như một vết nhơ mà muốn đó như là một bài học để rút kinh nghiệm. Cho nên tốt nhất thầy không nên biết người đó là ai và cũng không nên nhắc lại việc đó vì thầy tin rằng, em nào đã lấy sẽ tự biết sửa đổi để trở thành người tốt hơn.

(Sưu tầm)

 

Bàn chân kì diệu

Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy các bạn được cắp sách đến trường, Ký thèm lắm. Em quyết định đến lớp xin vào học.

Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy một cậu bé thập thò ngoài cửa. Cô bước ra, dịu dàng hỏi:

– Em muốn hỏi gì cô phải không?

Cậu bé khẽ nói:

– Thưa cô, em xin cô cho em vào học. Có được không ạ?

Cô giáo cầm tay Ký. Hai cánh tay em mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu: Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà. Đợi lớn lên ít nữa xem sao đã.

Cô thoáng thấy đôi mắt Ký nhòe ướt. Em quay ngoắt lại, chạy về nhà. Hình như em vừa chạy, vừa khóc.

Cô giáo trở vào lớp. Suốt buổi học hôm ấy, hình ảnh cậu bé với hai cánh tay buông thõng luôn hiện lên trước mắt cô.

 Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà Ký. Bước qua cổng cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động: Ký đang ngồi giữa sân hí hoáy tập viết. Cậu cặp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.

Thế rồi, Ký lại đến lớp. Lần này em được nhận vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết ở đó. Em cặp cây bút vào ngón chân và tập viết vào trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn của Ký. Bàn chân em giẫm lên trang giấy, cựa quậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô giáo thay bút chì cho Ký. Ký lại kiên nhẫn viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, điều khiển cho nó viết thành chữ còn khó hơn, nhưng Ký vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng cậu nằm ngửa ra, chân giơ lên, mặt nhăn nhó, miệng xuýt xoa đau đớn. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp lại, không duỗi ra được. Các bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái giống “chuột rút” làm khổ Ký rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, Ký quảng bút vào góc lớp định thôi học. Nhưng cô giáo Cương an ủi, khuyến khích em hãy kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng mỗi người nói một câu. giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cô giáo, những cử chỉ thân thương của bè bạn tiếp sức cho Ký. Ký lại quắp bút vào ngón chân hì hục tập viết.

Ký kiên nhẫn, bền bỉ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mệt mỏi, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị chuột rút liên hồi... nhưng Ký không nản lòng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ không bao giờ vắng mặt Nguyễn Ngọc Ký.

 Nhờ luyện tập kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.

Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày Bác Hồ còn sống, đã hai lần gửi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.

(Nguyễn Ngọc Ký)